Câu chuyện về Tha La Xóm Đạo (nhạc Dzũng Chinh, thơ Vũ Anh Khanh)

Tha La là một địa danh nổi tiếng trong nhạc vàng, xuất hiện trong những bài hát Hận Tha La, Vĩnh Biệt Tha La, đặc biệt là Tha La Xóm Đạo của nhạc sĩ Dzũng Chinh. Những ca khúc này đều được phổ nhạc từ bài thơ của thi sĩ Vũ Anh Khanh. Từ đó, địa danh Tha La ở Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) trở nên quen thuộc đối với những người yêu nhạc vàng. Đằng sau bài thơ, bài hát và địa danh này là một câu chuyện đau buồn của đất nước vào thời điểm bài thơ được ra đời.

Cho tới nay thân thế, gốc gác của nhà thơ mang tên Vũ Anh Khanh vẫn còn là một bí ẩn, người ta chỉ biết ông tên thật là Võ Văn Khanh, sinh năm 1926 tại Mũi Né, quận Hải Long, tỉnh Bình Thuận. Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, ông là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm nhiều truyện dài như Nửa Bồ Xương Khô, Bạc Xíu Lìn, Cây Ná Trắc và các truyện ngắn như Đầm Ô Rô, Sông Máu, Bên Kia Sông… nhưng chỉ một bài thơ mang tên là Tha La từ thập niên 1950 đã làm nên tên tuổi của ông suốt từ đó cho đến tận ngày nay.

Xóm đạo Tha La ngày nay thuộc xã An Hòa, huyện Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh. Xóm đạo này được thành hình từ thời vua Minh Mạng, nhưng phải đến thời Pháp chiếm được Nam Kỳ (thập niên 1860) thì họ đạo Tha La mới chính thức được công nhận với sự khuyến khích cùa người Pháp. Mặc dù họ đạo này phát triển ngày một mạnh mẽ và vững vàng cũng nhờ vào Pháp, nhưng người Công giáo Tha La đã phản ứng lại khi Pháp lộ rõ việc muốn khống chế cả dân tộc Việt, họ sẵn sàng đứng lên chống Pháp để đòi lại độc lập cho quê hương.

Mùa Thu năm 1945, thanh niên Tha La tham gia phong trào chống Pháp ở đất Nam Kỳ. Năm 1949, nhà văn Thẩm Thệ Hà đưa bạn thân của mình là nhà thơ Vũ Anh Khanh về thăm Trảng Bàng, có ghé qua thăm Tha La xóm đạo ở làng An Hòa. Trước cảnh điêu tàn của thời loạn ở nơi đây, ông đã sáng tác bài thơ mang tên Tha La:

Đây “Tha La xóm đạo”
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh.

Ngậm ngùi Tha La bảo:
– Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh.

Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.

– Viễn khách ơi!
Hãy dừng chân cho hỏi,
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng.
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,

Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ?
Ai đưa đón?

– Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!

Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ,
Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió,
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng.

Tha La hỏi:
– Khách buồn nơi đây vắng?

Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
– Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?

Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn,
Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít.
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:

Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà.
Nay đã ᴄhếƭ giữa chiến trường ly loạn!

Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán,
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa,
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa,
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh.
Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh.

– Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già.
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch,
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.

– Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,

Nhẹ bảo chàng:
” Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt.

Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi đau đất nước lầm than. “

Trời xa xanh, mây trắng nghẹn ngàn hàng,
Ngày hiu quạnh. Ờ… ơ hơ tiếng hát.
Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc.

Tiếng hát rằng:
Tha La giận mùa thu,
Tha La hận quốc thù,
Tha La hờn quốc biến,
Tha La buồn tiếng kiếm,

Não nùng chưa!
Tha La nguyện hy sinh.

Ơ… ơ hơ… có một đám chiên lành.
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy.
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:

Lạy Đức Thánh Cha!
Lạy Đức Thánh Mẹ!
Lạy Đức Thánh Thần!
Chúng con xin về cõi tục để làm dân…

Rồi… cởi trả áo tu.
Rồi… xếp kinh cầu nguyện.
Rồi… nhẹ bước trở về trần…

Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy dừng chân.
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ.

Trời Tha La vần vũ đám mây tan.
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi mà bẽ bàng?

Ơ… ơ… hơ… ờ… ơ… hơ… tiếng hát
Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc.
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách đi thôi!

Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ,
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay…
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:

– Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành.
Tha La dâng ngàn hoa gạo,
Và suối mát rừng xanh.

Xem đám chiên lành thương áo trắng.
Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.

Bài thơ này đã đi vào lòng người bao nhiêu năm qua, có thể nói cũng nhờ nét nhạc tài tình của nhạc sĩ Dzũng Chinh khi phổ thành bài nhạc vàng mang tên Tha La Xóm Đạo, rất được yêu thích suốt gần 60 năm qua. Sau đó nhạc sĩ Thanh Sơn cũng viết thành ca khúc Hận Tha La, ký tên là Sơn Thảo, nhưng không nổi tiếng bằng bài hát của nhạc sĩ Dzũng Chinh.

Nhạc sĩ Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính, sinh năm 1941 tại Nha Trang và qua đời ngày 1/3/1969, khi mới 28 tuổi.

Trong cuộc đời ngắn ngủi đó, dù sáng tác không nhiều, tuy nhiên chỉ với những ca khúc như Tha La Xóm Đạo, Những Đồi Hoa Sim, Lời Tạ TừĐêm Dài Chưa Muốn Sáng, tên tuổi nhạc sĩ Dzũng Chinh xứng đáng có một vị trí trang trọng trong dòng nhạc vàng.


Click để nghe Hoàng Oanh hát Tha La Xóm Đạo trước 1975


Click để nghe Dạ Hương hát Hận Tha La trước 1965

Có một sự trùng hợp, đó là cả nhà thơ Vũ Anh Khanh lẫn nhạc sĩ Dzũng Chinh đều mang mệnh bạc, phải ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, trong đó số phận của Vũ Anh Khanh có phần bi đát hơn, vì ông không được cả hai chế độ miền Nam và miền Bắc thừa nhận tài năng, chỉ vì các hoạt động xuất phát từ lòng yêu nước.

Là một người theo kháng ᴄhιến chống Pháp từ những năm đầu, nên năm 1954 Vũ Anh Khanh đã tập kết ra Bắc sau khi chia đôi đất nước. Tuy nhiên đến năm 1956, ông lại một lần nữa vượt vĩ tuyến để vào Nam, để rồi chuốc lấy một kết thúc cuộc đời rất bi thương.

Theo tiết lộ của ông Võ Hồng Cương, Trưởng ban Tuyên Huấn QĐNDVN thời chống Pháp, sau này có kể lại trên báo chí, vào năm 1956, nhà thơ Vũ Anh Khanh được nghỉ phép ở Vĩnh Phúc nhưng ông đã sửa giấy phép thành Vĩnh Linh, Quảng Trị để từ đó vượt vĩ tuyến, bơi qua sông Bến Hải vào Nam. Khi sắp vào được bờ bên kia thì bị phát hiện và phải bỏ mạng giữa dòng sông định mệnh.

Bài hát Tha La Xóm Đạo nổi tiếng với giọng hát Hoàng Oanh trước năm 1975, nhưng phiên bản hay nhất của bài này phải kể đến bản thu âm sau 1975 của ca sĩ Phương Dung, cô hát với giọng ca ai oán, não nùng để kể về một thời bi thương:


Click để nghe Phương Dung hát Tha La Xóm Đạo của nhạc sĩ Dzũng Chinh

Về địa danh Tha La, theo cuốn sách Trầm Tích Những Địa Danh của tác giả Nguyễn Thanh Lợi, chữ Tha La là từ gốc Khmer: sa la, nghĩa là một cái chòi nhỏ ở vệ đường dành cho khách nghỉ chân. Không chỉ ở Tây Ninh mà còn ở khá nhiều nơi có địa điểm mang tên Tha La, đặc biệt là những vùng đất từng có nhiều người Khmer sinh sống.

Theo Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, định nghĩa Tha la nghĩa là “Chòi, trại của thầy sãi Cao Miên, tên xứ ở gần Trảng Bàng”.

Địa danh Tha La nổi tiếng nhất, như đã nhắc đến bên trên, chính là xóm đạo Tha La ở huyện Trảng Bàng – Tây Ninh. Theo sách Trảng Bàng phương chí của Vương Công Đức, Tha La là tên Nôm của ấp An Hội, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng. Trong huyện này còn có nhiều địa danh gốc Khmer là Lâm Vồ, Tầm Đinh, Chà Rầy, Xóm Sóc, Trà Dơn, Lò Mo, Tho Mo…

Theo sách này thì nhà thờ Tha La nằm ở xóm Tha La, nay là ấp An Hội. Dưới triều vua Minh Mạng, vì nghi ngờ người Công giáo có liên hệ với loạn Lê Văn Khôi nên vua cấm đạo gắt gao. Trong hoàn cảnh ấy, ông Côximô Nguyễn Hữu Trí đã đưa gia đình từ Huế vào miền Nam sinh sống và lánh nạn. Ông đã đi qua nhiều nơi, từ Bà Trà, Thủ Dầu Một, đến Suối Đá, Tây Ninh và cuối cùng đã dừng chân tại Tha La này năm 1837, sống bên cạnh những người Khmer, giảng dạy đức tin cho người dân trong vùng.

Tại Tha La, ông Nguyễn Hữu Trí đã quy tụ được một số gia đình để khai phá đất hoang cũng như tổ chức các buổi đọc kinh gia đình. Đến năm 1840, ông Trí sang giáo phận Phú Cường (Thủ Dầu Một) mời được linh mục đến Tha La làm lễ rửa tội cho giáo dân.

Dù Tha La được thành hình từ những năm 1837-1840, nhưng phải đến năm 1860 thì họ đạo Tha La mới có linh mục đầu tiên, đó là Cha Besombes (Hạnh), từ đó tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.

Bài: Đông Kha
chuyenxua.net

Viết một bình luận